BA
BÀI THƠ PHẢN KHÁNG
LỜI
BÌNH VÀ SO SÁNH
Theo như cái tựa Ba Bài
Thơ Phản Kháng: Lời Bình Và So Sánh thì đây là bài Tổng Hợp gồm 3 bài bình thơ
riêng rẽ và một bài so sánh giá trị nghệ thuật của ba bài thơ. Tôi có thêm vào
cuối bài ý kiến của nhà thơ Nguyễn Khôi (Hội Nhà Văn Hà Nội)
và "một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ" giữa tôi và ông Hà Định
Văn.
Chúc bạn đọc yêu thơ có những giây phút thưởng thức văn chương lý thú.
Phạm Đức Nhì
BÀI
1: BÁNH VẼ VÀ NHÂN CÁCH MỘT NHÀ THƠ
Bánh vẽ
Chưa cần cầm lên nếm, anh
đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
(Chế Lan Viên, Văn học và
Dư luận 8-1991) (1)
Lời Bình
Bánh Vẽ có phép ẩn dụ toàn
bài nên tứ và ý khác nhau.
Tứ: Tác giả được mời ăn
bánh vẽ - chỉ là hình vẽ chứ không phải bánh thật. Ông biết là bánh vẽ nhưng
vẫn cứ ngồi vào bàn nhai nhồm nhoàm để “giữ chỗ” hầu còn có dịp ăn thứ thiệt.
Ý: Ông chấp nhận “cùng hội
cùng thuyền” với những người cộng sản bấy lâu nay chỉ là vì miếng cơm manh áo,
uy quyền và danh vọng chứ ngay từ đầu ông đã biết tỏng Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là
sự lừa bịp.
1/ Ngôn ngữ thơ rất đời
thường, dễ hiểu. Chức năng truyền thông thành công ở cả 2 mặt tứ và ý. Tứ thì
không nói làm gì vì hình ảnh bữa tiệc “bánh vẽ” đã quá rõ ràng. Nhưng – không
như một số bài thơ sử dụng phép ẩn dụ toàn bài khác - ở đây độc giả bước lên
cây cầu liên tuởng để đi từ tứ qua ý không khó khăn chút nào, và có thể nói
mười người như một tới cùng một điểm đến.
2/ Hình thức thơ: tác giả
biểu lộ một phong thái ung dung, tự tin trước hình thức thơ:
a/
Số chữ trong câu, số câu trong bài tùy tiện thoải mái, không có biểu hiện gò
bó, gượng gạo
b/
Luật bằng trắc: nhiều chỗ phải phá lệ để tứ thơ được ung dung tiến bước.
b/
Vần: không quá nhạt, không quá ngọt, thoang thoảng rất vừa độ.
c/
Dòng chảy của thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.
3/ Ẩn Dụ là “Nói cái
này mà ngụ ý cái kia”. Cái này cũng hợp tình hợp lý và cái kia cũng hợp lý hợp
tình. Phép ẩn dụ kín kẽ và hoàn hảo.
4 / Độ phủ sóng (scope) của
đề tài, ý thơ: rộng, bao trùm mọi mặt của chế độ, của xã hội,
5/ Phỉ nhổ, bôi bác chế độ,
chính quyền một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu
chửi “nặng đến nghìn cân”. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công
việc lãnh đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín
cực cao, chế độ không còn đường nào biện minh, chối cãi.
6 / Làm thơ trong lúc quá
tỉnh, kỹ thuật thơ điêu luyện, hoàn hảo nhưng thiếu hơi nóng cảm xúc. Thơ đầy
chất trí tuệ nhưng lại không hồn.
Tóm lại, đây là bài thơ
được viết bởi một thi sĩ bậc thầy về kỹ thuật thơ nên có hình thức gần như tối
ưu, ngôn ngữ chắt lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách
hoàn hảo, thơ đầy chất trí tuệ nhưng thiếu hồn. Qua Bánh Vẽ nhà thơ đã tự tay
trét bùn lên mặt mình nhưng ông cũng nhân tiện ném những nắm bùn hôi tanh đó
tung tóe vào mặt, vào người đám văn nghệ sĩ công thần của chế độ, những kẻ nhắm
mắt ca tụng một “Thiên Đường” mà chính mình đã biết là không có thật.
Nhân Cách Của Chế Lan Viên:
Thật tình tôi vẫn rất kính trọng
những người cộng sản chân chính, vào đảng vì lý tưởng, vì bầu nhiệt huyết của
tuổi thanh niên, muốn đem tài sức của mình xây dựng một xã hội công bằng, một
đất nước Việt Nam giầu đẹp. Tôi đã gặp, trò chuyện với một số người như thế.
Nhưng đã từ khá lâu rất nhiều người đã thấy sự thật, biết mình lầm lẫn, đã bỏ
hết để về với cuộc sống dân thường, giữ chút danh dự của kẻ sĩ.
Trường hợp Chế Lan Viên thì
khác. Ông là một thức giả, đã thấy sự thật ngay từ lúc đầu:
Chưa
cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Ông biết, nhưng “vẫn
ngồi vào bàn cùng bè bạn” vì:
a/
Mê bả vinh hoa, tham quyền cố vị: biết là bánh vẽ mà vẫn muối mặt ngồi cùng ăn
và dùng tài thơ của mình hết lời ca tụng đám người vẽ bánh để hưởng bổng lộc
triều đình cho đến chết. (1989)
b/
Hèn: Không có sĩ khí của người cầm bút, thấy cái sai to lớn, gây hại cho cả một
dân tộc mà – vì sợ - vẫn ngậm miệng, không dám lên tiếng, viết dấm dúi mấy bài
thơ, chờ khi chết (mấy năm sau) mới cho đem phổ biến.
c/
Và chính vì hèn, tham lợi lộc, quyền chức nên đã góp sức gây nhiều tội ác.
- Đẩy cả
mấy thế hệ thanh niên Việt Nam đi vào chỗ chết: Chính ông đã tự thú:
Mậu
Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
(Ai?
Tôi!, Chế Lan Viên)
http://www.thica.net/2008/03/15/ai-toi/
Chỉ một trận đánh mà đã gần
2000 (nói chính xác như trong bài thơ là 1970) người mất mạng. Suốt mấy chục
năm chiến tranh thì con số đó đã lên đến bao nhiêu? Rồi còn phía bên kia? Cũng
là những đứa con của mẹ Việt Nam máu đỏ da vàng.
- Rủ rê,
lôi kéo biết bao con dân nước Việt đi vào con đường mà chính mình đã biết là
sai lầm tai hại.
Thơ của ông có lúc tỉ tê, nỉ
non như rót mật vào lòng, có lúc như những bản nhạc hùng tráng thúc giục lên
đường. Trong số nhiều triệu con em Việt Nam ưu tú, một số rất đông vì nghe thơ,
đọc thơ ông mà đã ra sức phấn đấu vào đoàn, vào đảng để cuối cùng mang tội đày
đọa dân tộc, dẫm nát quê hương.
Kết Luận
Nhiều năm
sau nữa người yêu thơ có lẽ cũng chưa quên Bánh Vẽ, một bài thơ có kỹ thuật thơ
hoàn hảo, ý tứ sâu sắc (2). Thơ của ông, tên tuổi ông – nhà thơ Chế Lan Viên,
tên thật là Phan Ngọc Hoan - sẽ đi vào văn học sử, lịch sử của dân tộc. Lớp trẻ
sau này đọc thơ ông, xem tiểu sử ông chỉ cần nhớ 3 chữ: TÀI, Hèn và Ác.
Chữ TÀI thật to (viết hoa) là TÀI THƠ của ông, 2 chữ Hèn và Ác nhỏ
hơn nhưng thật đậm nét chính là nhân cách của ông.
Phạm Đức Nhì
Blog chuyên bình thơ
phamnhibinhtho.blogspot.com
Chú
Thích:
1/
Bộ Di cảo thơ gồm 3 tập I, II, III do NXB Thuận Hoá ấn
hành lần lượt các năm 1992, 1993, 1996. Riêng Bánh Vẽ và Trừ Đi được
xuất hiện năm 1991 trên Văn Học Và Dư Luận.
(http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/a13178/tho-di-cao-che-lan-vien.html)
2/ Cũng giống Ông Đồ (VĐL)
và Sông Lấp (TTX) là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử: nho học lụi tàn,
Bánh Vẽ (CLV), Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (Nguyễn Duy) và Tạ Lỗi Với Trường Sơn (ĐTQ) theo
tôi, là 3 bài thơ tiêu biểu cho những vần thơ “ngược dòng”, dám nói thẳng nói
thật về “hậu quả tai hại của việc áp đặt chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa trên quê
hương”.
Bài 2: TẠ
LỖI TRƯỜNG SƠN
BÀI
THƠ NGƯỢC DÒNG NÓNG BỎNG
Vài Lời Phi Lộ
Tôi biết
đến Đỗ Trung Quân và tài thơ của anh qua bản nhạc Quê Hương – thơ anh được Giáp
Văn Thạch phổ nhạc. Lúc ấy – còn ở trong tù - tôi chưa biết, chưa được đọc
nguyên bài thơ Bài Học Đầu Cho Con của anh. Mặc dầu hơi có cảm giác khó chịu
khi nghe đoạn cuối:
Quê hương
mỗi người chỉ một
Như là
chỉ một mẹ thôi
Quê hương
nếu ai không hiểu (sau này đổi hiểu thành nhớ)
Sẽ không
lớn nổi thành người
Nhưng
phải công nhận phần còn lại của bản nhạc (thơ) là những bức tranh về quê hương
thật dễ thương. Ở đó – cũng giống Ông Đồ của Vũ Đình Liên – thi đã hoá thân
thành họa; tác giả đã tặng cho đời những bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Sau đó
tình cờ đọc Tạ Lỗi Trường Sơn của ĐTQ trên Tiền Vệ tôi đã cao hứng viết bài thơ
trong có đoạn:
Ngày xưa
anh hát
“Quê
hương là chùm khế ngọt”
Sao bây
giờ cắn quả khế nào anh cũng che mặt bảo chua?
Có phải
tại ngày xưa khế chua
nhưng
muốn được lòng người anh yêu (1)
anh nói
bừa là khế ngọt?
Hay tại
sống với kẻ vô tình
lâu rồi
khế ngọt
cũng thành chua? (2)
có ý muốn
“đá giò lái” anh một cái. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn khoái những câu chửi rất
bộc trực, bốp chát – không giữ ý tứ, không dòm trước ngó sau - của anh nên hôm
nay cũng bày đặt nhảy vô viết mấy lời bình.
Ý, Tứ:
Bài thơ
là những lời đốp chát nói thẳng (không ẩn dụ) nên ý với tứ là một: Sau khi
chiếm được miền nam năm 1975 “những người nhân danh Hà Nội” đã khinh khi dân
Sài Gòn nói riêng và dân miền nam nói chung như cỏ rác, dùng những từ xấu xa
nhất để gán cho họ; nhưng rồi chính “những người nhân danh Hà Nội” – trong đời
sống thực tế - đã biểu lộ một nhân cách còn tệ hại và đáng khinh khi hơn
nhiều.
Hình Thức:
TLTS có
vóc dáng của thơ mới nhưng đã được tác giả đưa vào những thay đổi tích cực:
a/
Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách đếm
câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
b/
Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ (Bây giờ), câu dài nhất 18 chữ (Các anh
cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại
thì tùy hứng, không tuân theo một luật lệ nào.
c/
Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện,
thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần, có chỗ sử dụng cả vần gián cách
(3) để chuyển âm bằng trắc nên độ ngọt vừa phải, không có hội chứng nhàm chán
vần. “Lối chơi vần” rất nhuyễn của ĐTQ khiến dòng thơ chảy trơn tru, nhiều đoạn
dòng chảy rất xiết, tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành và lớn mạnh.
ngôn
ngữ: Mạnh bạo, hằn học, vỗ thẳng mặt, “lấy chữ của mày để chửi
mày” nhưng rõ ràng, dễ hiểu, chức năng truyền thông của bài thơ thành công. Một
số hình tượng rất hay như:
Các anh
hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi
trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
Và:
Các anh
cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt
và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Giải
Thích Thêm Về Tứ Thơ:
Đỗ Trung
Quân viết Tạ Lỗi Trường Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã
từng đi TNXP, từng khoác áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn có mùi của bên thua cuộc.
Nhưng trong cái đoàn dài đến mấy chục triệu nguời của bên thua cuộc ấy ĐTQ đứng
ở gần cuối hàng. Tâm hồn anh đã gần như nghiêng hẳn về phía bên kia. Anh “Tội
nghiệp Sài Gòn quá thể” nhưng Sài Gòn với anh là ai?
Là:
anh thợ
điện ra đi không về
là:
những “bà
mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
là:
những
người Sài Gòn đi xa
đi từ
tuổi hai mươi
nhận
hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc.
toàn là
những người sống ở miền nam, ăn cơm miền nam nhưng lòng dạ đã giao hết cho
“phía bên kia”
Và qua
đoạn thơ dưới đây:
Tội
nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng
đen đẫm máu
Tội
nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị
giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư
nhìn học trò mình nhiễm độc
tôi chưa
dám nói là anh đã có lối suy nghĩ hoàn toàn giống bên thắng cuộc nhưng những gì
họ nói anh đã rất tin tưởng và ghi khắc trong lòng.
Tại sao ĐTQ lại bực bội đến
độ phẫn uất để có thể viết lên những vần thơ “bừng bừng lửa giận”, chảy ngược
với dòng thơ phải đạo như thế? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy tôi mời bạn
đọc trở lại phần đầu của bài thơ:
Các anh
đến
Và nhìn
Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì
ke, gái điếm, cao bồi
Của tình
dục, ăn chơi
“Hiện
sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái
Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh
bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa
lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút
các anh thay súng
Bắn điên
cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những
đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh
hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh
bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu
thân ủy mị, yếu hèn
Các anh
hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi
trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
Vâng! Đó
là thái độ hết mực khinh khi của “những người nhân danh Hà Nội” đối với (dân)
Sài Gòn nói riêng và cả miền nam nói chung. Nhưng sau 7 năm thì theo ĐTQ,
“những người nhân danh Hà Nội”
“đang
ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới”
“chửi vào
tên những làng quê ghi trong lí lịch của mình”
và
“sợ đến
tái xanh
khi có ai
nói bây giờ về lại Bắc”
ĐTQ viết tiếp:
Bây giờ
Những đứa
con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói
về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi
giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm
xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh
cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và
gái
Các anh
ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các anh
bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh
cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt
và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
À! Thì ra
là “chúng mày nói phét, chúng mày lừa ông”. Và thi sĩ của chúng ta nổi trận lôi
đình, “chửi vung tít mẹt”. Bài thơ nặng mùi của bên thua cuộc là vì
thế.
Vâng! Có
thể nói TLTS là tập hợp một cách đầy nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng
mặt, nói hằn học trong cơn giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta nói
thẳng cho mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu
xa bẩn thỉu ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn gấp nhiều
lần hơn thế nữa.”
Trong cơn lửa giận phừng
phừng ĐTQ đã “bật mí” hai điểm mà “những người nhân danh Hà Nội” đã cố bưng bít
dấu diếm. Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ là phét
lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (4) trước sức phát triển và vẻ đẹp
của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (5) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức sống của dân
miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật chất - đã vượt
xa mức sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có hẳn một chính
sách đẩy dân miền nam đi vủng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào “chiếm” những
“điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài Gòn.
TLTS được
nhiều người khoái (dĩ nhiên là dân miền nam), tán tụng là bài thơ “hết sẩy”
cũng nhờ một phần ở nội dung của nó. Tác giả đã “không chịu trôi xuôi” mà dám
“lội ngược dòng” (ý thơ Nguyễn Duy), viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng
thơ phải đạo, nói lên những điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự
thật. Chính vì thế mà bài thơ phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.
Hơi Thơ,
Hồn Thơ:
Cái hay
nhất, cái tuyệt vời của bài thơ là cảm xúc. Hơi thơ tỏa nhiệt ngay từ những câu
đầu, dẫn người đọc đi một lèo tới đích. Cảm xúc từ câu chữ tỏa ra đã khá mạnh,
rồi do - bài thơ nhất khí liền mạch – sóng sau dồn sóng trước nên cảm xúc đến
từ thế trận của toàn bài dâng lên cao ngất. Hơn nữa tác giả viết trong lúc đang
lên cơn - lửa giận phừng phừng – thoát khỏi sự can thiệp của lý
trí, nên không còn biết sợ, chữ nghĩa cứ hàng hàng lớp lớp tuôn ra khiến hơi
thơ rất mạnh và nóng bỏng, hồn thơ lai láng.
Bài thơ
này phía “ta” nghe rất sướng tai, nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy
nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt không chịu nể mũi’ như thế thì làm sao có thể chấp
nhận được!”
Về Câu Kết Của Bài Thơ
Cuộc sống của anh ở miền
nam đang an lành, tiện nghi vật chất tương đối đầy đủ, tinh thần thì tự do
thoải mái. Người ta từ bắc vào “cầm chịch” mọi góc cạnh của đời anh. Người ta
chê anh đủ điều, khinh khi anh ra mặt, chửi anh như tát nước . Sau đó anh đã
nhận ra là người ta chỉ là bọn đạo đức giả; những gì người ta chê anh, khinh
anh, chửi anh thì bậy giờ người ta lại lậm vào còn gấp nhiều lần hơn thế nữa.
Anh đùng đùng nổi giận, chửi một hơi dài, rất văn hoa, rất có hồn, nghe rất đã.
Nhưng cuối cùng anh lại buông câu kết “Ai Bây Giờ Sẽ Tạ Lỗi Với Trường Sơn?”
nghĩa là anh vẫn “tôn thờ” cái việc vượt Trường Sơn của người ta, vẫn xem cái
việc người ta tự dưng từ bắc vào nam nắm đầu anh, cai quản cuộc đời anh là
đúng. Câu kết ấy phải nói là trật lất và lãng nhách.
Kết Luận
Dù TLTS
chưa phải là toàn bích, và cho đến thời điểm này (2016) bài thơ mới có trên
dưới 7 năm thử thách với thời gian nên chưa thể kết luận gì về sức sống của nó.
Nhưng chỉ nhìn vào giá trị nghệ thuật của bài thơ tôi phải công nhận là ĐTQ tài
hoa. Mới 27 tuổi đã viết được một thi phẩm giá trị, đã đưa được hơi nóng hừng
hực của tuổi trẻ trong lúc đang “nộ khí xung thiên” vào thơ. Cái giây phút “lên
cơn” ấy đâu phải lúc nào cũng đến với thi sĩ. Mà nếu may mắn nó có đến, đâu
phải ai cũng nhanh tay chộp được để đưa nó vào thơ. Cái hồn thơ, cái hơi thơ
mạnh mẽ nhường ấy khiến TLTS đứng nổi bật ở một góc riêng và tôi mạnh dạn tiên
đoán rằng – cũng giống như Ông Đồ và Sông Lấp là chứng nhân cho một giai đoạn
lịch sử của dân tộc, giai đoạn Nho Học lụi tàn, Tạ Lỗi Trường Sơn của Đỗ Trung
Quân – cùng với 2 bài thơ ngược dòng khác – cũng sẽ đi vào văn học sử, là chứng
nhân cho một giai đoạn lịch sử khác, giai đoạn chế độ XHCN bị áp đặt trên toàn
cõi Việt Nam.
Phạm Đức Nhì
Blog
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ nhưng
lại không yêu anh
2/ Quê
Hương - Kẻ Đi Người Ở, Phạm Đức Nhì, t-van.net
3/
Tội
nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh
thợ điện ra đi không về
Tội
nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói
vỉa hè nám cả những hàng me
4/ Trước
khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển
và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ
là “phồn vinh giả tạo”
5/ Tên
khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
PHỤ LỤC:
Tạ lỗi
Trường Sơn
1.
Một ngàn
chín trăm bảy mươi lăm
Các anh
từ Bắc vào Nam
Cuộc
trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh
đến
Và nhìn
Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì
ke, gái điếm, cao bồi
Của tình
dục, ăn chơi
“Hiện
sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh
bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái
Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh
bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa
lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút
các anh thay súng
Bắn điên
cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những
đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh
hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh
bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu
thân ủy mị, yếu hèn
Các anh
hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi
trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội
nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh
thợ điện ra đi không về
Tội
nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói
vỉa hè nám cả những hàng me
Tội
nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ
tuổi hai mươi
Nhận
hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi
những hàng dương xanh
Xem đã
bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội
nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những
“người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội
nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng
đen đẫm máu
Tội
nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị
giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư
nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn
của tôi – của chúng ta.
Có tiếng
cười
Và tiếng
khóc.
3.
Bảy năm
qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc
phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con
điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người
giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã
du đãng giang hồ
cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại
hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi
thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...
4.
Và khi ấy
Thì chính
“các anh”
Những
người nhân danh Hà Nội
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã
đời
Chửi hả
hê
Chửi vào
tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh
những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai
nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội
nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà
mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà
mẹ làm ra hạt lúa
Những năm
thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà
mẹ tự nhận phần mình tối tăm
Để những
đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa
con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói
về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi
giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm
xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng
phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng
chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và
gái
Các anh
ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các anh
bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh
cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt
và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn
1982 lẽ nào...
Lại bắt
đầu ghẻ lở?
5.
Tội
nghiệp em
Tội
nghiệp anh
Tội
nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai
ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai
đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm
chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6.
Xin ngả
nón chào các ngài
“Quan toà
trong sạch”
Xin các
ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản
đổi thay lốt cũ
Hãy để
yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên
xanh muôn thuở
Để yên
cho xương rồng, gai góc
Chân thật
nở hoa.
Này đây!
Xin đổi
chỗ không kì kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một
góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn
bầy hầy, ghẻ lở
Bây
giờ...
Tin chắc
rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
Khi sống
hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với
Trường Sơn?
(1982)
Bài
3: NHÌN
TỪ XA … TỔ QUỐC
NỖI
ĐAU QUẶN THẮT CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC
Lời Nói Đầu
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc -
nằm trong danh sách khá dài những bài thơ “phản kháng” - tự nó đã nặng mùi
chính trị. Lưu chuyển nó - nếu gặp người khắt khe - cũng có thể bị coi là có ý
đồ không tốt. Nhưng chẳng lẽ bình thơ mà gặp bài thơ nội dung súc tích như thế,
kỹ thuật thơ hay như thế lại đang tâm ngoảnh mặt làm ngơ? Thế là tôi quyết định
viết Lời Bình cho bài thơ.
Tôi không
muốn biến bài bình thơ của mình thành một phương tiện tuyên truyền. Đối với
những độc giả hiểu biết thì làm như thế là thừa, phí công vô ích. Đối với người
khác thì họ đâu có thèm để mắt tới những bài viết khô khan, khó đọc như thế
này.
Vì thế
tôi chỉ chú trọng đến khía cạnh văn chương: kỹ thuật thơ, tứ thơ, hơi thơ, hồn
thơ …
Nhưng khi
giải thích một câu thơ - đặc biệt trong bài thơ này – nó sẽ ít nhiều đụng đến
lập trường, quan điểm. Nói thì chưa chắc người đọc sẽ tin, nhưng tôi đã đứng
ngay thẳng, nghiêm chỉnh để viết lời bình cho NTXTQ.
Dĩ nhiên
bình thơ - ngoại trừ những bài thơ toàn bích rất hiếm gặp - phải có khen, có
chê. Đụng đến khen chê thì có người đồng ý, có người không. Tôi sẵn sàng đón
nhận mọi ý kiến của các bậc trương thượng, của các bạn văn, bạn thơ, của những
người yêu văn chương, và của mọi độc giả. Khen chê gì xin quý vị cứ gởi đến.
Tôi sẽ trả lời tất cả, không trừ một ai. Nếu ý kiến hay, sẽ được tuyển lựa để
đưa vào bài viết tổng hợp: Ba Bài Thơ Phản Kháng - Lời Bình – So Sánh và Tranh
Luận.
Ba bài thơ đó là: NTXTQ của
Nguyễn Duy, TLTS của Đỗ Trung Quân và Bánh Vẽ của Chế Lan Viên
Xin cám ơn bất cứ ai đọc
bài viết này.
Nghe Mang Máng Về Bài Thơ
Hạ tuần
tháng 8 năm 1988 tôi đang nằm ở khu C1 của Trại Giam Số 4 Phan Đăng Lưu chờ ra
tòa (1) thì có một tù nhân mới nhập phòng. Ông đã đứng tuổi (trên 50) là một
cán bộ của Sở Thông Tin Văn Hóa TP HCM. Nội vụ còn trong vòng điều tra nên ông
chỉ cho biết ông bị nghi ngờ một tội mà ông không liên can. Sau khi đã quen
nước quen cái ông kể cho bạn đồng tù nghe về một bài thơ lúc đó ở bên ngoài
đang làm cả nước xôn xao; “nội dung thì đụng đến những yếu huyệt của Chế Độ,
còn kỹ thuật thơ thì ‘hết sẩy’, đọc là khoái liền.” Rồi ông ta nói thêm: “Tác
giả còn trẻ lắm. Sinh năm 49, 50 gì đó. Chưa đến 40 tuổi đầu.”
Thế rồi
do chính sách cởi mở của Nguyễn Văn Linh chúng tôi được miễn tố và được trả tự
do. Chật vật với cuộc sống ở trong nam rồi lại ra bắc vượt biên 2 lần thất bại
(1 lần bị lừa), cuối cùng tháng 6/1991 chuyến đi của tôi đến bến Hồng Kông, gần
cuối 93 qua được Mỹ. Đến khi bị đụng xe gẫy chân, phải nghỉ việc bắt cua, tôi
xin tiền chính phủ vào học đại học và dạy tiếng Việt cho trẻ em để phụ giúp
cuộc sống của gia đình. Lúc ấy - nhờ có cái computer - tôi mới được đọc Nhìn Từ
Xa … Tổ Quốc đầy đủ trọn vẹn. Mãi đến những năm sau này, con cái lớn đi làm,
sức ép tài chánh nhẹ hẳn đi, tôi mới mon men bước vào chăm sóc vườn thơ của mình
và bắt đầu bình thơ của người khác. Và hôm nay – rà soát lại lưng vốn văn
chương, thấy đã kha khá - mới “sờ” đến bài thơ “nặng ký” của Nguyễn Duy.
Tứ Thơ: Bài thơ không có phép ẩn dụ toàn bài nên ý với tứ là một -
từ xa nhìn về tổ quốc thấy quê hương dân tộc có quá nhiều vấn nạn (căn bệnh)
quái ác mà không biết cách giải quyết (chữa trị) nên lòng đau quặn thắt.
Hình Thức: Bài thơ vẫn còn vóc dáng của thơ mới nhưng tác giả đã biết
“phá luật”, tháo bỏ xích xiềng để có thể tự do phóng bút.
1/ Viết hết ý thì
thôi, không cần biết bài thơ có bao nhiêu câu.
2/ Số chữ trong
câu tự do thoải mái.
3/ Vần liên tiếp
kiểu thơ mới nhưng nhiều “phá lệ” khéo léo, hợp lý nên độ ngọt của thơ vừa
phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”.
Ngôn Ngữ Hình Tượng: Rất xuất sắc, đầy ấn tượng, đặc biệt ở
phần chính của bài thơ - những vấn nạn của quê hương dân tộc.
Bố Cục: Bài thơ có thể chia làm 4 phần:
1/ Nhập đề: Hoàn
cảnh ra đời của bài thơ
2/ Phần đầu của
thân bài: Những chứng bệnh (vấn nạn) trầm trọng của quê hương, dân tộc.
3/ Phần sau của
thân bài: Chẩn đoán (tìm nguyên nhân) và cách chữa trị
4/ Kết luận: Niềm
tin ở tương lai dân tộc
Hoàn Cảnh Ra Đời Của Bài Thơ
Bài thơ được (bắt đầu) viết vào một đêm ở Moscow
(Nga) nên tác giả thấy thấp thoáng cái bóng của mình dưới ngọn đèn và nẩy ra ý
định trò chuyện với nó để bày tỏ tâm sự và giàn trải tứ thơ. Ông viết với tâm
thế của “bên thắng cuộc” – là con cưng của chế độ (được du học ở Nga) - một
lòng một dạ sắt son yêu quê hương đất nước:
“Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”
Những Căn Bệnh Quái Ác
Đây là phần chính của bài thơ - tác giả vạch ra
những vấn nạn lớn của quê hương, dân tộc.
1/ Hát đồng ca
Có một thời ta mê hát đồng
ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
tất cả trôi xuôi – cấm lội
ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
(*) Thơ Chế Lan Viên
Không phải chỉ ở ngành văn hóa văn nghệ mà hầu
như ở mọi nơi, mọi mặt trong cuộc sống người Việtt Nam đều phải “hát
đồng ca” đúng những chủ trương chính sách của Đảng – “chỉ được trôi xuôi, cấm
lội ngược dòng.” Thi sĩ kiêm bác sĩ Nguyễn Duy đã chẩn đoán, “bắt” được chứng
bệnh đầu tiên của chế độ: Tự do ngôn luận bị bóp nghẹt, văn thi sĩ cứ cúi đầu
nhắm mắt ngợi ca chế độ hết mình đến nỗi Chế Lan Viên cũng phải ngượng ngùng
thốt lên: “Ta là ta mà ta cứ mê ta”. Cái gì của ta và phe ta (phe XHCN) cũng là
nhất nên lại sinh ra biến chứng: nhiều thần tượng giả được phịa ra để làm điển
hình, làm gương:
Thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
2/ Xứ sở phì nhiêu sao thật lắm
ăn mày?
Từ những bài học dạy con em ở trường, những câu
nói cửa miệng của cán bộ đảng và nhà nước đến những khẩu hiệu biểu ngữ đỏ
đường, đỏ thành phố trên khắp quê hương thường có đoạn mang ý nghĩa: Đất nước
ta giầu đẹp, nhân dân ta trong đấu tranh thì anh dũng, trong lao động thì cần
cù, chăm chỉ (1). Thế nhưng “sao thật lắm ăn mày?” Chỉ có 2
cách để giải thích sự trái khoáy này. Một là, đó chỉ là câu nói ba xạo, lừa
bịp. Hai là, cơ chế chính quyền và cơ cấu xã hội bất công đã làm nguội lạnh ý
chí, nhiệt tình lao động của người dân; thà đi ăn mày còn hơn “còng làm cho
thẳng lưng ăn”.
3/ Thương binh liệt sĩ
bị bỏ bê.
Lãnh đạo
chóp bu chỉ biết bằng mọi cách đẩy thanh niên ra chiến trường. Chính Chế Lan
Viên đã tự thú:
Mậu
Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi!
(Ai?
Tôi!, Chế Lan Viên)
http://www.thica.net/2008/03/15/ai-toi/
Đến khi họ chết hoặc bị thương thì vì không dự trù ngân sách nên không có chích
sách đãi ngộ, đành ngoảnh mặt làm ngơ, bỏ mặc họ với gia đình trong khốn quẫn.
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Đoạn thơ đã quá rõ ràng, quá thật và quá mạnh,
không cần giải thích gì thêm nữa.
4/ Tín ngưỡng bị chà đạp
Đức tin, tín ngưỡng của con người bị ngang nhiên
xúc phạm, chà đạp. Tính vô thần của Chủ Nghĩa Cộng Sản lộ rõ mặt, không còn lấp
liếm chối cãi được nữa.
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Đoạn thơ thật hay về cả 3 mặt: ngôn ngữ, hình
ảnh và âm điệu.
5/ Công việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho
tương lai bị bỏ bê, coi thường.
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Tám câu thơ đã vẽ lên những bức tranh thê thảm
của tuổi trẻ Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với những thông tin phét lác từ các
phương tiện tuyên truyền của nhà nước. Với một thế hệ trẻ như vậy, tương lai
đất nước thật vô cùng ảm đạm. Ở đây hình tượng thơ đã thừa sức thuyết phục,
không cần biện giải dài dòng.
6/ Nhân phẩm con người rẻ mạt
Và con người - để sống còn - phải học dối gian,
lừa đảo, trở thành những thứ điếm.
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
phải tự hủy hoại nhân phẩm và lắm lúc phải quên
đi mình cũng có một linh hồn.
7/ Cơ chế chính quyền,
cơ cấu xã hội thối nát
Để úng phó với cơ chế bất công, xã hội thối nát
con người phải khôn vặt, trở nên lười biếng, ma giáo và vô cảm.
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
……………………
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
buôn hàng lậu – buôn quan –
buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Xã hội thối nát đến mức mua quan bán tước, “quyền
lực bày ra đấu giá trước công đường” thì không còn gì để nói nữa, dân
chỉ còn nước bó tay.
8/ Nhiều chính sách tàn
ác, phân biệt đối xử
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
……………………………………………
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Sau 30/4/75 có những người đang ở trên tàu chuẩn
bị ra khơi nhưng vì yêu đất nước và:
thương cha mẹ già, đàn em dại
nên:
tôi bước lên bờ ở lại quê hương (2)
Nhưng chính quyền của “xứ sở bao dung” đã đưa họ
và hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức của chế độ cũ (VNCH) vào các trại tập
trung cải tạo.
“Và bằng những lời dối trá
trái tim vô tình
tia nhìn thù hận
các anh cướp mất của tôi
những tháng năm đẹp nhất cuộc đời” (2)
Không những chỉ bị đày đọa đến thân tàn ma dại
mà còn biết bao người bỏ xác nơi rừng sâu nước độc. Thân nhân của họ ở ngoài
thì bị phân chia thành phần, phân biệt đối xử, tước hết mọi phương tiện để mưu
sinh nên đành liều mình - bất kể sông chết - vượt biên.
9/ Luật pháp như đùa,
lãnh chúa và đủ loại vua xuất hiện
Các quan chức địa phương thì không do dân bầu
trực tiếp như các nước dân chủ mà từ tiền bạc và thế lực phe nhóm. Quan chức
cao thấp các ngành không được tuyển chọn do khả năng chuyên môn mà đều có “giá
cả” như một món hàng giữa chợ - chồng tiền là lãnh chức. Người mua chức sẽ trở
thành lãnh chúa một vùng, thành vua trong ngành và tha hồ vơ vét để lấy lại
vốn.
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa sứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Những thành phần lừa đảo, mánh mung chôm chỉa
cũng trở thành những vua con trong lãnh vực mình hoạt động. “Luật pháp như đùa
như có như không có” nghĩa là chỉ áp dụng với dân đen còn thì dung túng cho đám
có quyền, có tiền tự tung, tự tác.
Những Vấn Nạn Của Quê Hương Dân Tộc là phần hay
nhất, được nhắc đến và trích dẫn nhiều nhất của bài thơ. Ông bạn tù - cán bộ Sở
Thông Tin Văn Hóa - cho rằng nội dung đã “đụng đến những yếu huyệt của chế độ”
chắc là ông muốn nói đến phần này. Nguyễn Duy tạo ra được những đoạn thơ tuyệt
vời như thế, trước tiên, vì ông là người “nằm trong chăn” nên “biết chăn có
rận”. Nhưng có phải mình ông biết đâu. Con số “biết chăn có rận” lên đến hàng
vạn, hàng triệu người nhưng chỉ có ông lòng đau quặn thắt vì yêu nước thương
dân, tài thơ trác tuyệt, đởm lược hơn người, lại gặp lúc cao hứng - cảm xúc sôi
lên phủ mờ lý trí – không biết sợ, không suy tính thiệt hơn nên mới “tuôn ra”
được những vần thơ chân thật, có hồn. Ông viết về những xấu xa tệ hại của XHCN
và con người Việt Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng mạnh mẽ, sinh động
và táo bạo quá. Chính ông sau này cũng phải công nhận “khi viết xong thì chính bản
thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như
vậy.”
Chẩn Đoán Bệnh Và Cách Chữa Trị
Muốn bắt đúng bệnh thì việc đầu tiên phải cho
bác sĩ thấy, sờ, khám những bộ phận của cơ thể bị che dấu bởi nhiều lớp áo quần
- phải “lột mặt nạ” để nhìn rõ chân tướng sự vật
Thì lột mặt đi lần lữa mãi
mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
Và thi sĩ đã tìm ra mấy nguyên nhân đã gây ra và
ủ bệnh từ nhiều năm:
miếng quá độ nuốt vội vàng
sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
1/ Áp đặt quá hấp tấp “bước quá độ” của CNXH vào
hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững.
2/ Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”,
cả nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến mức
“ngộ độc ca ngợi”.
3/ Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa
nhau để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác,
rất đắt.
Nhưng muốn chữa trị thì Nguyễn Duy bất lực:
“biết thế nhưng mà biết làm thế nào”
Bốc thang chửi bới thì sợ bị lợi dụng, van lạy
để cầu xin đổi mới thì không biết:
“Đổi mới thật hay giả vờ đổi
mới”
nên đành buông một câu hỏi bâng quơ mà chính
mình không biết - và không ai có thể cho mình - câu trả lời:
“Máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?”
Đối Thoại Với Cái Bóng Và Hồn Thơ
Nguyễn Duy trong lúc xác lập khung cảnh
(setting) của bài thơ đã có một sáng kiến. Để khỏi tự mình đơn độc kể lể giãi
bày tâm sự như các thi sĩ khác ông “đè” cái bóng của chính mình ra để nói
chuyện với nó. Làm thế có cái lợi trước mắt là giọng thơ bớt đơn điệu. Tôi đã
nghe ông đọc bài thơ trên Youtube. Mỗi lúc quay qua nhấn giọng hỏi cái bóng:
Ai? thì vài khán giả ngồi gần ông – cũng giống ông - mắt lại sáng lên khoái
chí; không khí bài thơ tươi, vui hơn.
Tuy nhiên, để có được cái không khí có vẻ tươi
vui ấy bài thơ đã phải trả một giá khá đắt. Một là, hỏi giật giọng như vậy một,
hai lần thì còn lôi cuốn sự chú ý của độc giả, tạo không khí sống động cho bài
thơ. Nhưng chơi cái mửng ấy đến 10 lần mà lần nào câu hỏi cũng là Ai? và câu
trả lời là dáng điệu bất tri, bất lực của cái bóng (3) thì càng về sau cảm giác
nhàm chán càng nặng nề. Hai là, về chữ nghĩa, ý tứ thì bài thơ nhất khí liền
mạch nhưng hơi thơ, dòng thơ thì vì phải qua hơi nhiều bảng Stop nên không có
trớn, chảy không được nhanh, được mạnh, không tận dụng được sự gia tăng tốc độ
và cường độ dòng chảy khi có “sóng sau dồn sóng trước”. Do đó, có sự thiệt thòi
cho sự lớn mạnh của hồn thơ.
Cũng là người làm thơ, tôi có cảm giác khi đặt
bút viết đoạn “Những Vấn Nạn Của Quê Hương Dân Tộc” Nguyễn Duy đang lên cơn
điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá giận dữ. Và ông đã tạo được những
vần thơ rướm máu và tóe lửa - mà khi hoàn hồn định tâm dù có cố cách mấy cũng
không thể nào viết được. Tôi nghĩ rằng nếu không có quá nhiều bảng Stop do “đối
thoại với cái bóng” tạo ra thì hơi thơ, hồn thơ sẽ mạnh hơn nhiều và giá trị
nghệ thuật của bài thơ còn cao hơn nữa.
Đoạn Kết
Thiếu Thuyết Phục
Mới đây cô giáo Trần Thị
Lam cũng vẽ lên một bức tranh đen tối của đắt nước qua bài thơ Đất Nước Mình
Ngộ Quá Phải Không Anh. Cô chấm dứt bài thơ bằng một câu hỏi:
Ai trả
lời giùm đất nước sẽ về đâu?
làm xốn
xang, rung động hàng triệu người yêu thơ, yêu nước bởi vì đó là nỗi băn khoăn
chung của dân tộc trước hiện tình đất nước..
Nguyễn
Duy đã moi tâm huyết, dùng tài thơ của mình vẽ lên bức tranh về con người và
quê hương đất nước Việt Nam rất sinh động, rất thật nhưng đen như mõm chó, đen
như cái “sự đời”. Vâng, bức tranh Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc đầy đủ, cụ thể, rõ nét,
sinh động và “đen” hơn bức tranh của cô giáo nhiều. Nhưng nhà thơ của chúng ta
lại rất lạc quan bảo người dân Việt Nam:
“Còn thơ
còn dân
ta là dân
- vậy thì ta tồn tại (sic!)
và
Dù
có sao đừng thở dài
Còn da
lông mọc còn chồi nảy cây
thì đúng
là ngài nói cho lấy được, chẳng “tâm lý” tý nào. Lạc quan của ngài chỉ là lạc
quan tếu và niềm tin của ngài chỉ nhẹ như những câu xã giao, đầu môi chót lưỡi
của láng giềng an ủi nhau khi gặp hoạn nạn:
“Thôi!
Bác cũng đừng quá buồn. Hết cơn bỉ cực tới hồi thái lai.” (Sau đó nếu nó cứ bỉ
cực hoài mà không thấy thái lai thì cũng cứ cố chịu vậy nhé)
Riêng
câu “Dù có sao đừng thở dài” thì rất “chõi”, như một cái gai
nhọn và cứng đâm vào da thịt người đọc.
Tôi nhớ
đã khá lâu rồi - khi gặp nhau ở Cali (Mỹ) - một bạn thơ đã nói với tôi “Biết
đâu nếu không có cái đoạn kết lạc quan tếu ấy thì giờ này Nguyễn Duy đang mịt
mù ở một vùng núi rừng nào đó còng lưng cuốc đất như Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan
thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nguyễn Duy viết như thế là ‘hay’ đấy, chứ không phải
‘dở’ đâu.” Theo tôi, đó chỉ là suy đoán; và “hay, dở” như ông bạn tôi nói là
cách ứng xử của thi sĩ. Nhiệm vụ của tôi - một người bình thơ - là dựa vào văn
bản để tìm ra cái hay, cái dở của kỹ thuật và nghệ thuật thơ. Và đoạn kết của
NTXTQ với tôi, đã không cùng hướng với dòng chảy của tứ thơ và là một đoạn kết
dở.
Đởm Lược
Của Nguyễn Duy
Nguyễn
Duy nhìn quanh quất rồi than một câu não nuột trong bài thơ của mình:
“Ngày
càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết”
Nhân sĩ
Bắc Hà và cả miền nam (13 năm sau 1975) biết rõ chế độ XHCN nó nguy hại như thế
mà miệng vẫn ngậm tăm. Để giải thích hiện tượng này nhà phê bình Chu Văn Sơn đã
viết “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo nữa. Có phải thế không mà lòng yêu
nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị
nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho
hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những lỗ tai đông đặc nghi kỵ. https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
Riêng
Nguyễn Duy, ông không chỉ than suông mà đã viết – viết đúng những vần thơ
tuẫn tiết - phổ biến là có thể mất mạng hoặc tù đày. Biết thế nhưng ông vẫn cứ
“chơi” và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu mến ông vì
tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông nhiều hơn
nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông. Bàì thơ vì
thế xuất hiện đúng lúc, tính thời sự nóng hổi, có tiếng vang lớn cả bắc lẫn
trong nam.
Kết Luận
Nhìn Từ
Xa … Tổ Quốc là một bài thơ rất hay - tứ thơ táo bạo, ngôn ngữ hình tượng tuyệt
vời, viết trong lúc cao hứng nên cảm xúc mạnh, thơ có hồn. Có chút “xộc xệch”
về thế trận chữ nghĩa nên bài thơ chưa phải là toàn bích. Nhưng chỉ với hình
hài như thế thôi nó đã làm chính quyền bối rối. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang
có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.”(4) Còn
độc giả thì khỏi nói, trình độ thưởng thức thơ càng cao thì càng khoái - đọc mà
nở từng khúc ruột. Tôi đã mạn phép xếp nó vào danh sách gồm 3 bài thơ “phản
kháng”, về giá trị nghệ thuật đã đủ tầm vóc để đại diện cho một giai đoạn lịch
sử của dân tộc – giai đoạn CNXH bị áp đặt trên toàn nước Việt Nam.
Texas 07/
2016
Phạm Đức
Nhì
CHÚ
THÍCH:
1/ Vũ
Ánh, một phóng viên tài ba, một viên chức cao cấp trong ngành Truyền Thanh
Truyền Hình VNCH (Sau này là chủ bút báo Người Việt ở Califonia) trong thời
gian ở Trại Trừng Giới A 20 Xuân Phước đã thực hiện tờ Hợp Đoàn - một tờ báo
“chui”, kiểu Nguyệt San - để đấu tranh chống chính sách đối xử dã man với tù
nhân của trại. Sau khi anh bị đưa đi biệt giam dài hạn, tôi được đề cử phụ
trách tờ báo. Được thêm 3 số nữa thì báo bị lộ. Những người liên can bị giải về
Số 4 Phan Đăng Lưu để thụ lý chờ ra tòa. Ngoài ra tôi còn dính líu tới một “bài
thơ phản động” mà người lưu giữ nó đã bị xử 12 năm tù.
2/ Bờ Vẫn
Quá Xa, Phạm Đức Nhì, t-van.net
3/ Mượn
chữ của Chu Văn Sơn trong bài Nhìn Từ Xa Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng
4/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa
PHỤ LỤC:
Nhìn Từ Xa … Tổ Quóc
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên
SO
SÁNH BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG
(Bài
viết này có nhắc lại một vài ý trong ba bài bình thơ)
KHÚC NHẠC
DẠO ĐẦU
Đởm Lược Của Thi Sĩ
1/ Đỗ
Trung Quân:
Nhiều người yêu thơ tỏ vẻ
tiếc và có ý trách ĐTQ “quá cẩn thận”, đã nhét Tạ Lỗi Trường Sơn vào
“hộc tủ” quá lâu nên khi xuất hiện không còn nóng hổi tính thời sự. Tôi hoàn
toàn không đồng ý với kiểu trách móc đó. Năm 1983 tôi đã ở chung trại (cải tạo)
với một thầy giáo trở thành tù chính trị - bị kết án 18 năm tù vì đã sáng tác
một bài thơ chỉ hơi “đụng chạm” đến chế độ. Trong không khí chính trị như thế
nếu ĐTQ phổ biến bài thơ thì hậu quả sẽ khó lường. Với tôi, ĐTQ là dân miền nam
(Sài Gòn) mà dám viết bài thơ với nội dung “vượt lằn ranh” và với giọng điệu
“chửi thẳng mặt” “những người nhân danh Hà Nội” thì đã là có chút máu liều. Thế
rồi lại dám phổ biến bài thơ đó ở Việt Nam năm 2009 – lúc mình còn đang sống
nhăn – thì trong người anh chắc chắn máu cũng phải có thêm ít nhiều “chất” dũng
cảm. So với Chế Lan Viên thì lá gan của anh chắc phải nặng hơn vài chục gram.
Tiếc là tứ thơ của anh chỉ
bó hẹp trong một số sự việc “ngang tai trái mắt” của những năm đầu đổi thay chế
độ cho nên sau 27 năm nó đã nguội, mất gần hết tính thời sự, chỉ như “nhắc lại
chuyện xưa cho biết người biết ta vậy thôi”.
2/ Nguyễn
Duy:
Rất anh hùng. Biết đó là
những vần thơ đã vượt qua lằn ranh, “bước bào vòng cấm địa” của chế độ mà ông
gọi là những vần thơ tuẫn tiết - phổ biến là có thể tù đày hoặc mất mạng –
nhưng vẫn cứ “chơi”, và sẵn sàng chấp nhận hậu quả. Người đời kính trọng ông, yêu
mến ông vì tài thơ, vì lòng yêu nước, nhưng có lẽ còn kính trọng và yêu mến ông
nhiều hơn nữa vì đởm lược – thái độ anh hùng, hiên ngang bất khuất - của ông.
3/ Chế
Lan Viên:
Hèn nhát, thiếu sĩ khí. Đã
nhận ra sự hoang tưởng của CNXH ngay từ lúc đầu:
“Chưa cần cầm lên nếm
anh đã biết là bánh vẽ”
nhưng vẫn ngậm tăm, tiếp
tay cho những người vẽ bánh lừa dối dân tộc. Viết dấm dúi mấy bài thơ, đợi mấy
năm sau khi chết mới cho phổ biến.
Ảnh Hưởng, Tiếng Vang Của
Bài Thơ
1/ Tạ Lỗi
Trường Sơn
Hơi thơ nóng bỏng, hồn thơ
lai láng, nhưng khi bài thơ xuất hiện thì tứ thơ đã “nguội”, không còn tính
thời sự. Người yêu thơ tìm đọc TLTS là để thưởng thức tài thơ của ĐTQ và để
“biết người biết ta”. Sau 27 năm nằm trong hộc tủ bài thơ đã mất rất nhiều sức
hấp dẫn lẽ ra phải có nếu xuất hiện “đúng thời vụ”.
2/ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Khi báo Sông Hương bị đình
bản để kiểm điểm, thi sĩ như cá nằm trên thớt, nhà bị công an theo dõi rình mò
(1) nhưng người dân thì hả lòng, hả dạ. Họ đã thấy, đã trải nghiệm, đã chịu
đựng những căn bệnh quái ác của chế độ, của đất nước từ rất lâu nhưng vì sợ cho
bản thân và gia đình, không dám nói ra thì bỗng nhiên tất cả những điều ấm ức
ấy được tuyên bố một cách long trọng, đầy nghệ thuật bằng một bài thơ …
nặng ký. Sự xuất hiện của Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc do đó, rất đúng lúc, tính thời
sự nóng hổi, trở thành một sự kiện văn học lớn, làm xôn xao dư luận trong nước
cả bắc lẫn nam.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ đã bôi bác,
phỉ nhổ chế độ một cách cay độc, lời lẽ nhẹ nhàng nhưng ý tứ, nội dung của câu
chửi “nặng đến nghìn cân”, độ phủ sóng của tứ thơ rất rộng, bao trùm mọi mặt
của chế độ, của xã hội. Cộng với vị trí của ông trong chính quyền, làm công
việc lãnh đạo tinh thần, tư tưởng nên câu chửi có căn cớ, gốc rễ, có độ khả tín
cực cao, chế độ không còn đường nào biện minh, chối cãi. Bài thơ làm
tan rã (hoặc lung lay) nền tảng lý tưởng của ngay cả những người cộng sản lâu
năm.
Được Mất Của Thi Sĩ Khi
Trình Làng Bài Thơ
a/
Đỗ Trung Quân: Đưa đội quân chữ nghĩa của mình vào thử lửa trong một trận đánh
lớn và đã thành công ở mặt tài thơ. Do tầm nhìn chưa thấu đáo ở tứ thơ cộng
thêm bài thơ bị “ngâm tôm” quá lâu nên ảnh hưởng về mặt chính trị và xã hội
giới hạn.
b/
Nguyễn Duy: Qua NTXTQ đã biểu lộ một tấm lòng yêu nước sắt son, một đởm lược
phi thường (rất anh hùng), một tài thơ trác tuyệt – đã thành công khi đưa các
con chữ của mình vào một trận đánh lớn (hơn cả ĐTQ). Uy tín của Nguyễn Duy đã
lên rất cao ở cả 2 mặt tài thơ và nhân cách.
c/
Chế Lan Viên: Qua Bánh Vẽ CLV đã biểu lộ một tầm nhìn xa và sâu sắc (về mặt
chính trị) một tài thơ điêu luyện, kỹ thuật thơ hoàn hảo. Nhưng qua đó cũng lộ
ra một nhân cách kém cỏi: ham hố chức vị, quyền lợi vật chất, tâm địa gian ác,
kẻ sĩ cầm bút mà rất hèn, đã tích cực tham gia Vẽ Bánh để lừa cả dân tộc.
CHỌN BÀI THƠ HAY NHẤT
Trong một
bài bình thơ, sau khi phân tích và đưa ra nhận định về giá trị nghệ thuật của
bài thơ, nhà phê bình thường bàn thêm về mối tương quan giữa tác giả, tác phẩm
và bối cảnh lịch sử xã hội để biết vị trí, tầm quan trọng của tác phẩm trong
dòng vận động của văn học, văn học sử, lịch sử của đất nước và - nếu là tác
phẩm lớn - của cả nhân loại. Nhưng khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức là muốn
nói đến giá trị nghệ thuật – cái hay, cái dở - của những bài thơ được so sánh
nhà phê bình phải chặt hết dây mơ rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài thơ
không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.
Lúc ấy
đởm lược của tác giả (anh hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ là
loại sâu dân mọt nước, tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm xôn
xao dư luận của cả nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có đại
diện cho một giai đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ chú
tâm đến mấy tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ
là: Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Bình chọn
chỉ dựa theo những tiêu chí này thì bài thơ được lợi nhất là Bánh Vẽ của Chế
Lan Viên. Những điểm tệ hại trong nhân cách của nhà thơ như Hèn, Gian Ác, Sâu
Dân Mọt Nước - lẽ ra sẽ bị điểm rất xấu - đều không được nhắc đến. Kế đến là
TLTS của ĐTQ. Khuyết điểm “tứ thơ đã mất hẳn tính thời sự” - lẽ ra sẽ bị trừ
điểm – thì lại được cho qua. Và bài thơ chịu thiệt thòi nhất là Nhìn Từ Xa … Tổ
Quốc của Nguyễn Duy. Đởm lược anh hùng, lòng yêu nước sắt son của nhà thơ, nhận
được rất nhiều thiện cảm của nhà phê bình, của người đọc - lẽ ra sẽ được thêm
điểm – thì lại phải vứt qua một bên.
Và bây giờ tôi sẽ thực hiện
công việc mà tiêu đề của bài viết đã đưa ra là so sánh giá trị nghệ thuật của 3
bài thơ.
Ý, Tứ Thơ
1/
Tạ Lỗi Trường Sơn:
a/
Đối tượng: Những người nhân danh Hà Nội – dân bắc kỳ 75
b/
Những điều chê trách:
- Ham hố,
tìm kiếm những tiện nghi vật chất, những cái xấu của Sài Gòn (miền nam) mà
chính miệng mình đã lên tiếng miệt thị, chửi rủa
- cố bám
trụ ở nam, không về bắc, quê hương xứ sở của mình.
Về điều chê trách thứ nhất,
ĐTQ chê không đúng đối tượng. Những kẻ “đẻ” ra những lời lẽ, giọng điệu miệt
thị dân nam là đám chóp bu Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng và đám cán bộ (Văn
Hóa, Báo Chí) cấp trung bị bắt buộc phải nói như thế, chứ hầu hết bộ đội (và
sau này là gia đình họ) chắc là mặt cũng không đủ dầy để nói những lời như vậy
trước mặt dân Sài Gòn. Hơn nữa, ăn ngon mặc đẹp, sống đầy đủ tiện nghi vật chất
là ước mơ thiết thực của con người. Dân bắc lúc ấy có “mê mồi” tìm kiếm những
thứ ấy cũng là lẽ thường, không đáng để bị khinh khi.
Về điều
chê trách thứ hai, ở miền bắc đất hẹp người đông, người khôn của khó lại phải
trải qua hơn 20 năm dưới chế độ kém phát triển về kinh tế nên đời sống của
người dân cơ cực. Vào nam thấy thoải mái, dễ sống - đất lành chim
đậu - họ muốn ở lại cũng là điều dễ hiểu.
May mắn
là nhờ đọc “giữa hai hàng kẻ” độc giả đã hiểu được 2 điều mà đám chóp bu Hà Nội
ra sức dấu diếm: Một là, những cái “ưu việt” của chế độ và con người XHCH chỉ
là phét lác. Dân miền bắc ngạc nhiên đến choáng ngợp (2) trước sức phát triển
và vẻ đẹp của “Hòn Ngọc Viễn Đông” (3) và các thành phố lớn ở miền nam. Mức
sống của dân miền nam lúc đó khá cao - đặc biệt là thực phẩm và tiện nghi vật
chất - đã vượt xa mức sống của người dân miền bắc. Hai là, chính quyền đã có
hẳn một chính sách đẩy dân miền nam đi vủng kinh tế mới để đưa dân miền bắc vào
“chiếm” những “điểm then chốt” trong những thành phố lớn - đặc biệt là Sài
Gòn.
2/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
ĐTQ khi
viết TLTS (1982) mới chỉ biết “những người nhân danh Hà Nội” có 7 năm - thời
gian chưa đủ để những hậu quả to lớn và lâu dài của chế độ XHCH hằn rõ nét trên
mặt những con người miền nam yêu dấu của anh. Nguyễn Duy đã biết và sống với
XHCN có thể nói gần cả cuộc đời, và trong chừng mực nào đó – chính ông cũng là
một trong “những người nhân danh Hà Nội”. Khác biệt ở chỗ ông hết lòng yêu nước
và dũng cảm dám nói lên sự thật.
Ông nói đến nhiều vấn nạn
to lớn của đất nước. Sau đây là vài thí dụ:
- tính vô
thần của chế độ:
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
- độc tài:
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược dòng
Nhà phê bình Chu Văn Sơn,
Tiến Sĩ Văn Chương của chế độ đã than vãn “Rồi yêu nước cũng phải có chỉ đạo
nữa. Có phải thế không mà lòng yêu nước, nỗi đau đời lắm khi cứ phải nói chui
như một thứ hàng lậu. Thiện chí bị nghi ngờ, thiện tâm bị cảnh giác. Lời tâm
huyết bị kiểm duyệt, cắt xén sao cho hợp những cái khuôn cấm kỵ, lọt được những
lỗ tai đông đặc nghi kỵ. (4)
-
và thối nát:
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
- Một xã
hội băng hoại, một dân tộc không còn nhân phẩm
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
- Và chẳng
thể hy vọng gì ở thế hệ mai sau:
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ông hơn hẳn ĐTQ là đã chỉ ra mấy nguyên nhân, mà
theo ông, đã gây ra những chứng bệnh quái ác kia:
1/ miếng quá độ nuốt vội vàng
sống sít
Áp đặt quá hấp tấp “bước quá độ” của CNXH vào
hoàn cảnh đất nước Việt Nam trong khi cơ sở vật chất còn chưa đủ lớn, đủ vững.
Tôi suy ra rằng lúc ấy ông vẫn tin ở Chủ Nghĩa Cộng Sản nhưng trách những người
lãnh đạo không đủ kiên nhẫn chờ đợi thời cơ chín mùi, thích hợp.
2/ mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Tự hào vô lối, vô căn cứ đến độ “bội thực”, cả
nước vỗ ngực ngợi ca mình, ngợi ca đảng, ngợi ca chế độ, ngợi ca nhau đến mức
“ngộ độc ca ngợi”.
Trên lừa dưới, dưới lừa trên, cả nước lừa nhau
để được sống “an lành”. Cụm từ “sự thật hôn mê” được dùng rất chính xác, rất
đắt.
Ông không nhận ra được rằng, thật ra, bội
thực tự hào, ngộ độc ca ngợi và sự thật hôn mê chính là con đẻ của
CNXH – dù áp dụng ngay những năm 50s hay chờ đế mấy thập kỷ sau cũng thế thôi.
Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả đông đảo hơn. Thêm vào đó, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, “nỗi đau” của ông sâu nặng hơn, nhân bản hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn.
Mỗi vấn nạn ông trình bày
trước mắt độc giả - bằng thứ ngôn ngữ và hình tượng đặc biệt cộng với cảm xúc nóng
bỏng trong tâm hồn – là một đoạn thơ trác tuyệt, vừa cụ thể, rõ ràng, sinh động
vừa đầy tính nghệ thuật. Có thể nói mỗi vấn nạn là một yếu huyệt của cơ chế
XHCN và ông đã đâm vào rất nhiều yếu huyệt như thế của chế độ nhưng – vì còn
quá nhiều ràng buộc – ông không thể từ bỏ vị thế của mình. Người đọc
đã từng có ít nhiều kinh nghiệm với chế độ rất dễ dàng thông cảm với ông. Tuy
nhiên chính vì thế về phương diện tứ thơ, NTXTQ của ông phải đứng sau Bánh Vẽ
của CLV một khoảng ngắn.
3/ Bánh Vẽ
Bài thơ có
ý tứ sâu sắc là Bánh Vẽ của CLV. Tác giả chính là một trong “những
người nhân danh Hà Nội” và đã thấy cội nguồn của vấn đề từ rất sớm. Nguyên nhân
những vấn nạn của tổ quốc, theo ông, là việc áp đặt chế độ XHCN tên toàn cõi
Việt Nam. Thiên đường mà cả dân tộc đang hướng đến chỉ là Bánh Vẽ. Và người đọc
hiểu ngay cách chữa trị mà ông ngụ ý trong bài thơ: muốn không phải ăn Bánh Vẽ
thì làm Bánh Thiệt mà ăn. Với ý tứ như thế Bánh Vẽ của CLV sẽ còn là cái gai,
là một đối lực to lớn cho khối cán bộ làm công tác văn hóa tư tưởng và là mối
đe dọa rất nặng nề, rất thật cho sự sống còn của chế
độ.
Xếp Hạng Tứ Thơ
Trong 3 bài thơ phản kháng
– nêu lên những vấn nạn của tổ quốc, dân tộc do hậu quả của việc áp đặt chế độ
XHCN trên toàn cõi Viết Nam, xét về ý tứ, thì TLTS của ĐTQ yếu kém nhất. Những
hiện tượng xã hội mà anh nêu lên để chửi vỗ mặt “những người nhân danh Hà Nội”
thật ra chỉ là những cảnh đời ngang tai trái mắt của một giai đoạn chuyển tiếp
- hậu quả của việc thay đổi chế độ từ dân chủ tự do sang độc tài chuyên chế.
Những hiện tượng ấy sẽ dần dần đi vào lãng quên với bộn bề khó khăn của
cuộc sống mới, không đáng gọi là vấn nạn của dân tộc.
Kế đến là NTXTQ của Nguyễn
Duy. Ông đã chỉ ra được những vấn nạn lớn, chính yếu của chế độ nhưng nói đến
nguyên nhân thì “cái thấy” của ông còn mù mờ cho nên khi bàn đến phương cách
chữa trị thì ông ú ớ “biết thế nhưng mà biết làm thế nào”.
Bài thơ có ý tứ xuất sắc
nhất là Bánh Vẽ của CLV. Ông đã thấy hết ngay từ đầu và qua bài thơ đã trình
bày rất chính xác, rõ ràng và đầy nghệ thuật nguyên nhân và cách chữa trị những
vấn nạn to lớn của đất nước. Phép ẩn dụ hoàn hảo đã tạo thêm nét duyên dáng cho
tứ thơ vô cùng sâu sắc của ông.
Xếp hạng:
Hạng
nhất: Bánh Vẽ.
Hạng
nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Hạng
ba: Tạ Lỗi Trường Sơn.
Kỹ Thuật Thơ
1/ Bánh Vẽ
Chế Lan Viên là một thi sĩ
bậc thầy về kỹ thuật thơ nên Bánh Vẽ có hình thức gần như tối ưu, ngôn ngữ chắt
lọc, hình tượng dễ cảm, ẩn dụ sắc sảo được thể hiện một cách hoàn hảo, thơ đầy
chất trí tuệ
a/
Số câu không giới hạn.
b/
Số chữ trong câu tùy tiện.
c/
Vần: không quá nhạt, không quá ngọt, thoang thoảng rất vừa độ. Dòng chảy của
thơ lững lờ, êm ả, thích hợp với tâm trạng buồn, cay đắng.
d/
Kỹ thuật thơ hoàn hảo
e/
Kết thúc không độc đáo, ấn tượng nhưng hợp lý, không lộ vẻ yếu kém.
f/
Bài thơ có 91 chữ - tương đối ngắn so với hai bài kia – nên việc chỉ huy đội
quân chữ nghĩa dễ dàng hơn. Với tôi, đây là một chi tiết quan trọng để cân
nhắc, xếp hạng Kỹ Thuật Thơ.
2/ Tạ Lỗi Trường Sơn
a/
Số câu không giới hạn. Viết cho đến khi hết hứng, hết ý thì thôi. Theo cách đếm
câu của PĐN thì bài thơ dài xấp xỉ 100 câu.
b/
Số chữ trong câu: Câu ngắn nhất 2 chữ, câu dài nhất 18 chữ (Các anh cũng chạy
bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...) còn lại thì tùy
hứng, không tuân theo một luật lệ nào.
c/
Vần: Vần liên tiếp khá đều đặn nhưng nhờ số chữ trong câu thay đổi tùy tiện,
thỉnh thoảng tác giả lại chuyển đoạn thay vần nên độ ngọt vừa phải, không có
hội chứng nhàm chán vần mà dòng thơ vẫn chảy trơn tru, nhiều đoạn dòng chảy rất
xiết.
d/
Kết thúc Trật bàn đạp, không nhất quán với tứ thơ, “lãng nhách”.
e/
Bài thơ dài (795 chữ) có nghĩa là ĐTQ chỉ huy đội quân chữ nghĩa đông hơn - gần
gấp 9 lần Bánh Vẽ của CLV – trong một trận đánh lớn hơn, thế trận phức tạp hơn
mà chỉ đến câu cuối cùng mới phạm một lỗi (về tứ thơ) nên xét về Kỹ Thuật Thơ
thì – tuy chưa phải là toàn bích – TLTS nếu không ở phía trước thì cũng không
thể xếp sau Bánh Vẽ được.
3/ Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
a/
Số câu không giới hạn. Viết hết hứng, hết ý thì thôi.
b/
Số chữ trong câu tùy ý, tùy hứng, không có cảm giác bó buộc.
c/
Vần: vần liên tiếp kiểu Nhớ Rừng nhưng nhiều phá lệ khéo léo, hợp lý nên độ
ngọt của thơ vừa phải, không có hội chứng “nhàm chán vần”. Nhiều bảng Stop phát
sinh đo “đối thoại với cái bóng” khiến tốc độ, cường độ dòng chảy của tứ thơ
không có hiệu ứng “sóng sau dồn sóng trước” ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của hồn
thơ.
d/
Kết thúc: gượng, yếu, không thuyết phục.
e/
Là bài thơ dài nhất (1105 chữ) nên tài điều binh khiển tướng trong đội quân chữ
nghĩa của ND được đánh giá rất cao. Mặc dù NTXTQ có đến 2 khuyết điểm: một là
kết thúc gượng, yếu, hai là nhiều bảng Stop, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ, theo
tôi, ít nhất cũng phải xếp bài thơ ngang hảng với Bánh Vẽ và TLTS.
Xếp Hạng Kỹ Thuật Thơ
Đồng hạng nhất.
Cảm Xúc, Hơi Thơ, Hồn Thơ
a/
Tạ Lỗi Trường Sơn
Cảm xúc mạnh ngay từ tầng 1
– ngôn ngữ hằn học, nóng bỏng, hình tượng sống động. Thế trận chữ nghĩa khá
chặt chẽ, vần liên tiếp nên tứ thơ tuôn chảy, cảm xúc ở tầng 2 mạnh. Đặc biệt
là thi sĩ viết trong cơn điên tiết, lửa giận phừng phừng nên hơi thơ (hơi nóng
của cảm xúc) tỏa ra rát bỏng, hồn thơ (thứ cảm xúc cao cấp nhất của thơ) tràn
trề, lai láng. Được nghe hoặc đọc bài thơ này rất “đã”. Theo tôi, TLTS đã thắng
- một cách rõ ràng - 2 bài thơ kia ở lãnh vực Hồn Thơ
b/
Nhìn Từ Xa Tổ Quốc
Cũng là người làm thơ, tôi
có cảm giác Nguyễn Duy đang lên cơn điên – điên vì quá đau thương, điên vì quá
giận dữ. Ông đã không đắn đo hơn thiệt, không biết sợ hãi, để mặc cho các con
chữ tuôn ra. Cảm xúc từ mỗi chữ, mỗi câu tỏa ra nóng hổi. Ý này nối tiếp ý kia,
vấn nạn sau nối tiếp vấn nạn trước, chảy xiết cứ như dòng sông vào mùa nước lũ.
Nhưng sao thật lạ! Ở những
đoạn sau, cảm xúc từ mỗi câu thơ vẫn nóng như lửa, cơn điên của tác giả hình
như vẫn chưa hạ, mà sao có một “cái gì đó”, một “lực nào đó” trì kéo lại, không
cho tứ thơ chuyển động nhanh như trước. Tìm hiểu kỹ thì được biết chính sáng
kiến “đối thoại với cái bóng” đã làm dòng chảy của tứ thơ không thông, ảnh
hưởng đến sự lớn mạnh của hồn thơ. Cho nên, dù NTXTQ có hồn thơ khá mạnh, cũng
phải xếp sau TLTS về tiêu chí Hồn Thơ tuy độ khác biệt chỉ khoảng một 10 một 8.
c/
Bánh Vẽ
Có thể nói trong Bánh Vẽ
chất trí tuệ đặc biệt tỏa sáng. Trong tiến trình chế tạo bài thơ lý trí đóng
vai trò chủ đạo; tác giả đã rất tỉnh táo, suy nghĩ chín chắn trước khi phóng
bút. Vì thế bài thơ tuy thành công vượt bậc về kỹ thuật thơ - cảm xúc nội tại
của bài thơ (ở tầng 1 và tầng 2 rất mạnh) - lại thiếu cái mà dân đọc thơ sành
điệu thích nhất: hồn thơ. Bánh Vẽ đã thua rất xa hai bài thơ kia về tiêu chí
Hồn Thơ.
Xếp hạng
Hồn Thơ
Hạng
nhất: Tạ Lỗi Trường Sơn
Hạng Nhì: Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc
Hạng
ba: Bánh Vẽ
XẾP HẠNG TỔNG KẾT
1/ Phẩm chất quý giá nhất của bài thơ, theo tôi, là Hồn Thơ. Vì thế tôi đọc TLTS của ĐTQ với rất nhiều hứng thú. Ngôn ngữ, hình tượng anh sử dụng trong thơ rất hợp với vai trò của một tay thợ chửi chuyên nghiệp. Anh chửi hay quá! Nghe đã quá! Tôi hình dung được khuôn mặt đang lên cơn điên của anh, cảm được nỗi bực tức của anh, cảm được hơi nóng – không phải từ con chữ - mà từ một chỗ vô hình nào đó trong bài thơ tỏa ra.
Và cái luồng hơi nóng đó tuôn chảy thành dòng, càng về
cuối bài thơ càng mạnh. Đó là cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất của
thơ – mà người thưởng thức thơ từ kha khá đến sành điệu sẽ cảm nhận được ngay.
Đó chính là Hồn Thơ. Tôi đã định kéo bài thơ lên vị trí đầu bảng nhưng câu kết
của anh đã làm tôi chới với và cụt hứng.
Tôi chợt nghĩ đến đội bóng mà mình yêu thích – có giàn cầu thủ rất hay cả về kỹ thuật cá nhân lẫn phối hợp toàn đội. Các cầu thủ đá hoàn toàn ngẫu hứng, lên xuống rất nhịp nhàng. Lấy được bóng từ tiền đạo đối phương dâng lên vượt qua hàng tiếp ứng và rồi rất nghệ thuật, vượt qua từng cầu thủ của hàng hậu vệ để đối diện với thủ thành.
Cả
cầu trường không một tiếng động; khán giả nín thở chời đợi. Rồi thủ thành cũng
bị lừa ra, bỏ trống cầu môn; khán giả đứng dậy chuẩn bị vỗ tay vang dội chào
đón bàn thắng của đội nhà. Đúng lúc ấy thì tiền đạo đang có bóng tung chân sút
mạnh. Hình như anh không nhìn thấy cầu môn. Bóng vượt xà dọc ra ngoài … rất xa.
Câu kết của TLTS chính là cú sút dứt điểm – mà không nhìn thấy cầu môn - của ĐTQ.
Sau cuộc họp thống nhất đất nước cuối năm 1975 một thời gian (5) MTGPMN đã bị - thẳng thừng và công khai - loại khỏi chính trường. Một số đông thấy mình bị phản bội đã ra mặt chống lại. Tùy theo mức độ chống đối, kẻ bị thủ tiêu, người xộ khám Chí Hòa, người bị quản thúc tại gia (đuổi gà cho vợ).
Dân miền nam - đặc biệt là những người ăn cơm
Quốc Gia mà lòng dạ lại gởi hết cho Cộng Sản - lúc ấy đã sáng mắt. Có người đã
nghĩ ra một câu nói đùa rất thâm thúy: “Văn Vỉ đang lái Honda chạy khắp Sài
Gòn” (6). Một người đọc TLTS đã viết cảm nhận: “Nhưng đọc hết bài, tiếc
thay, Đỗ Trung Quân năm ấy, chỉ sáng có một con mắt” (7). Theo tôi, dựa vào
tứ thơ - đặc biệt là câu kết – ĐTQ lúc viết bài thơ vẫn còn chưa sáng mắt.
Và thế là mặc dù hơi thơ
nóng bỏng, hồn thơ lai láng, kỹ thuật thơ điêu luyện, tôi vẫn gạt TLTS qua một
bên. Vị trí đầu bảng (của 3 bài thơ) vẫn còn bỏ trống.
2/ Qua Bánh Vẽ CLV tiết lộ là ông bìết XHCN chỉ là ảo tưởng ngay khi chấp nhận cùng hội cùng thuyền với những người cộng sản. Bài thơ có kỹ thuật thơ hoàn hảo, ẩn dụ tuyệt vời. Riêng ý tứ thì sâu sắc, biểu lộ một tầm nhìn hơn hẳn TLTS và NTXTQ – không những chỉ ra cội nguồn của những vấn nạn mà còn gián tiếp nói đến cách giải quyết vấn đề: “Muốn không phải ăn Bánh Vẽ thì làm Bánh Thiệt mà ăn.” Với những ưu điểm vượt trội như vậy Bánh Vẽ có thể xếp ở vị trí đầu bảng được lắm chứ.
Tuy nhiên, bài
thơ có một khuyết điểm lớn là được viết trong lúc quá tỉnh táo nên thiếu Chất
Thơ, thiếu Hồn Thơ. Hơn nữa, nó chỉ là một bài thơ “ngắn”, thế trận chữ nghĩa
chỉ ở cấp “thấp” so với tầm vóc của TLTS và NTXTQ. Chỉ huy một trận đánh chỉ có
91 binh sĩ chắc chắn dễ dàng tránh sơ xuất hơn trận đánh có 795 (TLTS) hay 1105
(NTXTQ) binh sĩ tham chiến. Chính vì thế tôi đã không chọn Bánh Vẽ và, vị trí
đầu bảng trong 3 bài thơ, một lần nữa, vẫn được bỏ trống.
3/ Về tứ thơ NTXTQ đã trình bày được - rất thật,
rất sinh động - những vấn nạn của tổ quốc. Nguyên nhân của chúng, theo ông là “miếng
quá độ nuốt vội vàng sống sít” và:
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
Ông chưa nhận ra rằng tất cả những căn nguyên ông nêu lên ở trên đều do cơ chế XHCN mà ra cả. Ông viết NTXTQ đang lúc cao hứng tột độ như người lên cơn điên nên cảm xúc ở cả 3 tầng đều mạnh; ở vài đoạn đầu của phần Vấn Nạn hơi thơ nóng hổi. Nhưng càng về sau do phân tâm “đối thoại với cái bóng”, dòng cảm xúc bị ngăn lại bởi những bảng Stop nên Hồn Thơ không có trớn để đạt tới tốc độ và cường độ lẽ ra còn cao hơn nữa.
Về kỹ thuật thơ, ông như một vị tướng tài, chỉ huy đại quân trong một
trận đánh lớn và đã thành công về nhiều mặt. Tuy nhiên, do tầm nhìn chưa thấu
đáo ở tứ thơ và đoạn kết gượng gạo, thiếu thuyết phục nên tôi đã không xếp
NTXTQ vào vị trí đầu bảng của 3 bài thơ.
Và bảng
xếp hạng sau cùng sẽ là: Cả Ba Đồng Hạng Nhất.
KẾT LUẬN
Kết quả bình chọn đã xong, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và bài viết lẽ ra đã kết thúc. Nhưng khi chuẩn bị ký tên (ở cuối bài) rồi tắt computer đi ngủ đầu óc tôi cứ nghĩ đến cảnh tượng Nguyễn Duy ngồi trong nhà phập phồng lo sợ khi thấy “người lạ” lảng vảng ở trước sân mà thương cảm cho nhà thơ. Từ thương cảm đến nể phục cái anh hùng bất khuất của kẻ sĩ. Và tôi lại nghĩ đến bài thơ của ông.
Lý trí
của một người bình thơ bắt tôi phải công tâm khi bình chọn và kết quả bình chọn
đã minh bạch. Nhưng trong lòng tôi – có hình ảnh của ND - vị trí của NTXTQ hình
như cao hơn hai bài thơ kia một tý. Tôi biết như thế là thiên vị - là một tính
xấu, nhưng biết làm thế nào được. Chỉ mong độc giả thông cảm cho cái tính xấu
này của tôi. Bởi vì Thơ và con người của Thi Sĩ đâu phải lúc nào cũng rạch ròi
tách bạch.
Phạm Đức
Nhì
Blog:
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ http://hatranghn.blogtiengviet.net/2013/05/15/bani_thai_nhann_tarl_xa_tar_quar_c_carsa
2/ Trước
khi vào nam (1975) dân miền bắc phải học tập để biết rằng những sự phát triển
và vẻ đẹp của Sài Gòn, của miền nam, những tiện nghi vật chất của người dân chỉ
là “phồn vinh giả tạo”
3/ Tên
khác của Sài Gòn được người ngoại quốc gọi một cách nể trọng.
4/ https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
5/ Từ
ngày 15 đến ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống
nhất Tổ quốc đã được tổ chức tại Sài Gòn. Đồng chí Trường Chinh - Trưởng đoàn Đại
biểu miền Bắc và đồng chí Phạm Hùng - Trưởng đoàn Đại biểu miền Nam thống
nhất ký vào ngày 21 tháng 11 năm 1975. http://www.archives.gov.vn/Pages/Tin%20chi%20ti%E1%BA%BFt.aspx?itemid=432&listId=c2d480fb-e285-4961-b9cd-b018b58b22d0&ws=content
6/ Một nhạc sĩ cổ nhạc nổi
tiếng, bị mù cả hai mắt ở Sài Gòn.
7/ https://hoangdaiduong.wordpress.com/2009/10/18/c%E1%BA%A3m-nghi-d%E1%BB%8Dc-th%C6%A1-t%E1%BA%A1-l%E1%BB%97i-v%E1%BB%9Bi-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-s%C6%A1n-c%E1%BB%A7a-d%E1%BB%97-trung-quan/
Thư Của Nhà Thơ Nguyễn Khôi
Thân gửi
: Nhà thơ Phạm Đức Nhì ,
Đây là một "Tiểu luận bình thơ" xưa nay chưa từng có ở Việt Nam (cả
trong/ ngoài nước) kể từ khi nhóm Nhân Văn -Giai Phẩm "phê bình tập thơ
Việt Bắc của Tố Hữu" (1956). Có thể nói là lý lẽ rất sắc sảo, rất HAY, rất
xác đáng và đích đáng, có tác dụng làm thức tỉnh những ai đã mấy chục năm qua
chỉ quen thưởng thức một chiều (lề phải) về Thơ Tố Hữu , Chế Lan Viên (ở mảng
Ngợi ca "Người thay đổi đời tôi/Người thay đổi Thơ Tôi", chứ chưa
phải thời viết Di cảo , trước khi chết).
Theo thiển ý của NK thì Phạm Đức Nhì nên đổi lại đầu đề là : SO SÁNH 3 SIÊU
PHẨM THƠ PHẢN BIỆN
Lý giải :
- Phản
kháng là nói trái lại, chống đối 1 chiều, quyết liệt nhưng chưa chắc đã có tính
thuyết phục.
- Phản biện, tuy cũng là nói trái lại, nhưng là nói có lý lẽ, phân tích phải/
trái, đúng sai... của "người cùng đội ngũ / lề phải" (không thuộc phe
lề trái / phản động) nhằm "giải mê", làm thức tỉnh đồng chí/ đồng bào
thấy được "sự thật" (bản chất của chế độ xã hội/ thời thế mà họ đang
sống).
Ba bài đều HAY, đạt mức SIÊU PHẨM THƠ PHẢN BIỆN...
Trong 3 bài thì bài "Nhìn từ xa Tổ Quốc của Nguyễn Duy" là hay hơn
cả, nó là "một tác phẩm lớn" có tác dụng thức tỉnh rất rộng và rất
sâu đối với mọi tầng lớp người Việt Nam trong và ngoài nước (kiểu hãy mở mắt ra
mà nhìn thực trạng Đất nước...) : ý mới, tứ lạ, hình tượng thơ sống động ,ngôn
ngữ điêu luyện...Thi pháp Nguyễn Duy ở bài thơ này đã đạt đỉnh cao về "thơ
hiện thực phê phán" có giá trị phúng dụ cao.
Bài "Bánh vẽ " của Chế lan Viên... qua lời bình của Phạm Đức Nhì đã
bóc mẽ rất thật "chân tướng Chế lan Viên " : thông minh /tài - cơ
hội- ác. Bài thơ là một sự phản tỉnh "huỵch toẹt" của Chế , nhưng vẫn
"rất cơ hội" để phải khi đã chết rồi mới dám cho vợ công bố (kiểu để
hạ cánh an toàn một cách chắc chắn đã...), Thơ khô, khó đọc, không hấp dẫn
...chỉ số ít người hiểu được "thâm ý" của Chế, nên tác dụng không
rộng rãi...
Bài "Tạ Lỗi Trường Sơn" của "Nhà thơ Quê hương là chùm khế
ngọt" khá HAY, đượm...tuy vậy nó chỉ như một cơn gió thoảng qua. ít người
để ý.
Đôi lời thô thiển , cảm nghĩ...NK xin được bày tỏ, chia sẻ cùng Nhà thơ Phạm
Đức Nhì...có điều gì bất cập, xin được lượng thứ.
Hà Nội 17-8-2016
Kính : Nguyễn Khôi
TRAO ĐỔI VỚI ÔNG
HÀ ĐỊNH VĂN
Lời nói
đầu:
Trong thời gian viết lời bình cho Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi có
trao đổi emails với một độc giả là ông Hà Định Văn. Sau khi 3 bài viết hoàn
thành, đọc lại emails thấy những điều chúng tôi trao đổi có liên quan đến Thơ,
đặc biệt là bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc của Nguyễn Duy nên theo tôi, có thể xem là
một cuộc đối thoại văn học nho nhỏ. Được sự đồng ý của ông Hà Định Văn xin được
chia sẻ với bạn đọc để rộng đường dư luận.(Phần in đậm là theo ý của ông Hà
Định Văn)
1/
Kính gửi
Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.
Thưa ông,
tôi một người đã khá lớn tuổi (U 60) quê gốc Việt Trì – Phú Thọ hiện đang sống
ở Cam Ranh – Khánh Hòa. Lâu nay, tôi vẫn thường đọc các bài phê bình của ông
trên các trang mạng. Những bài viết của ông dù ngắn hay dài đều giúp tôi có
thêm những nhận thức mới về giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Vì vậy,
nếu có thể và không có gì phiền, tôi rất mong được ông gửi cho tôi theo địa chỉ
email này, tuyển tập những bài lý luận, phê bình của ông về văn học trong nước,
hải ngoại và quốc tế. Xin trân trọng cảm ơn ông. Kính chúc ông những ngày cuối
tuần có nhiều niềm vui.
Kính thư.
Hà Định
Văn.
2/
Thưa ông Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã quan tâm đến
những bài viết của tôi. Tôi bình thơ với mục đích đem kiến thức và khả năng cảm
nhận thơ ca của mình truyền cho lớp trẻ VN. Mỗi bài bình thơ, dù ngắn hay dài,
đều chứa một "điểm gì đó" giúp người đọc nâng cao trình độ của mình
khi thưởng thức thơ hoặc làm thơ. Ông nhận ra điều đó tức là công việc của tôi
đã phần nào thành công.
Tôi mới lập một trang web
chuyên về bình thơ phamnhibinhtho.blogspot.com
Một số kha khá những bài
bình thơ của tôi được đăng ở đó. Trang web tổ chức còn luộm thuộm vì tôi bận
tra cứu viết bài. Mời ông Hà Định Văn vào thăm.
Phạm Đức Nhì
3/
Thưa ông Phạm Đức
Nhì,
Tối qua tôi đã vào được
trang Web của ông, lần lượt đọc tất cả các bài, và tôi rất thích. Tôi thấy thật
tiếc là bây giờ tôi mới được biết và được đọc những bài lý luận phê bình sắc
sảo, khách quan, kiến thức sâu rộng, ý tứ uyên thâm của ông. Ở trong nước tôi
chỉ đọc các ông : Lại Nguyên Ân; Hoàng Ngọc Hiến; Đặng Văn Sinh; Nguyễn Chính;
Phạm Xuân Nguyên và một vài người khác thôi. Sau 1975 được đọc các tác phẩm văn
học (thơ, văn...) của các tác giả phía Nam, tôi mới thấy những điều tôi đọc
trước đây đúng là thứ văn nghệ nô bộc, cùng đám văn nô, bồi bút của đám
"cuốc doanh" thật là thảm hại. Một lần nữa xin được cảm ơn ông. Tôi
sẽ thường xuyên vào trang Web của ông để học hỏi.
Kính chào ông.
Hà Định
Văn.
4/
Chào ông
Hà Định Văn,
Cám ơn ông đã có thiện cảm với cách viết của tôi. Tôi bình thơ
không hoa mỹ, đao to búa lớn như những nhà phê bình "lớn" khác. Đối
tượng tôi hướng đến là lớp trẻ Việt Nam. Tôi thực hiện trang web cũng là hướng
đến họ. Tôi cũng làm thơ nên cũng đem kinh nghiệm của mình vào phê bình.
Những
Tiêu Chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ tôi tổng hợp từ các trang
web văn học ở VN và hải ngoại. Thêm vào đó tôi có một nhóm "thầy và bạn
văn chương" người Mỹ giúp ý kiến nên những bài bình của tôi có thể chưa
Hay nhưng không đến nỗi sai lạc. Mà nếu có sai lạc tôi sẽ nhận lỗi và sửa chữa.
Chúc ông
vui khỏe
Phạm Đức
Nhì
5/
Kính Gởi
Nhà thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì,
Thưa Nhà
thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.
Hôm nay
vào Blog Phamducnhi đọc bài phê bình của ông “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Nỗi Đau
Quặn Thắt Của Một Người Việt Yêu Nước”, tôi thấy hay quá. Hồi đầu năm nay, tôi
đã đọc trên trang Vanviet bài của Chu Văn Sơn (1) bình bài thơ này, tôi đã lập
tức gửi cho BBT của VanViet mấy dòng như sau :
Kg BBT.
Xin trân
trọng cảm ơn BBT đã đưa toàn bài thơ “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” và cả đoạn băng Nhà
thơ Nguyễn Duy trực tiếp đọc bài thơ này của mình. Lâu nay tôi vào trang
VanViet đọc các trang mà tôi yêu thích: thơ, truyện ngắn, lý luận phê bình, với
tâm thế các tác phẩm được BBT sử dụng phải khác hẳn với những tác phẩm từng
được đưa trên các báo, tạp chí v.v… của Hội nhà văn VN. Vì vậy, với tinh thần
nói thẳng, nói thật, rất mong được BBT chuyển một ý kiến ngắn sau của tôi đến
tác giả Chu Văn Sơn.
Thưa ông Chu Văn Sơn,
Sau khi đọc rất kỹ bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng” của ông, tôi đã có ý kiến gửi BBT như sau : “Tôi rất yêu thơ Nguyễn Duy. Tôi đã có hẳn một sưu tập những bài thơ tôi thích nhất của nhà thơ này. Hôm nay vào VanViet , thấy có bài phê bình của tác giả Chu Văn Sơn là tôi đọc ngay. Nhưng thật tiếc, bài viết quá dài mà chỉ toàn chữ nghĩa "nhà trường" thôi, nên tác giả đã "bình" không ra cái "nhân", cái "cốt" của bài thơ.
Tôi cố đọc, mong có được một đoạn bình
"trúng", nhưng đã thất vọng. Tác giả lấy cái tựa là: "NHÌN TỪ
XA… TỔ QUỐC - TIẾNG THƠ QUẰN QUẠI BI HÙNG", nhưng lại vòng vo chữ nghĩa,
nên người đọc như tôi không bị thuyết phục bởi hiệu ứng từ bài phê bình. Trong
khi tôi đọc riêng cả bài thơ thì cảm nhận có được từ tư duy, ngôn ngữ và thông
điệp của bài thơ thật khác với bài phê bình”.
Thưa ông Chu Văn Sơn. Chắc ông cũng biết với một người phê bình có tài, có tâm thì không thể có kiểu phê bình hời hợt, nửa vời, vô bổ như vậy. Tôi nghĩ, chắc chắn “trường phái lý luận phê bình quan phương, hướng thượng kiểu Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức” v.v… đã, đang và sẽ không thể còn có chỗ trong lòng thế hệ người đọc hiện nay.
Cách đây hơn ¼ thế kỷ, sự truy vấn trách nhiệm về căn nguyên, cội nguồn cái ác,
cái lưu manh, cái khốn nạn đã tàn phá nhân dân này, đất nước này của bài thơ “
Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” , đến nay (2015) vẫn nóng bỏng tính thời sự. Đó mới là
cốt lõi của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến người đọc. Bình không ra cái
thông điệp đó là thất bại của nhà phê bình đấy, thưa ông . Nhân ngày đầu năm,
có mấy lời mạo muội gửi tới ông.
Trân
trọng! Hà Định Văn.
Xin cảm
ơn ông Phạm Đức Nhì về bài phê bình sâu sắc rất thuyết phục này. Kính chúc ông
thật nhiều sức khỏe, ngày cuối tuần có nhiều niềm vui.
Kính thư.
Hà Định Văn.
6/
Chào ông
Hà Định Văn
Không biết đâu là Họ, đâu là Tên - nếu sai, mong lượng thứ.
Cám ơn ông đã đọc bài Bình Thơ mà tôi đã bỏ vào khá nhiêu công
sức.
Tôi đã viết Lời Bình cho 3 bài thơ phản kháng. Đang viết một bài
Tổng Hợp để So Sánh. Nếu ông không phản đối, có thê tôi sẽ trích một phần (hay
toàn thể) thư ông vừa gởi cho tôi để đưa vào bài viết trên. Coi như đây là lời
xin phép.
Nhân tiện gởi ông Lời Bình của 2 bài thơ phản kháng khác.
Chúc ông vui khỏe.
Phạm Đức
Nhì
7/
Kg Nhà
Thơ, Nhà Phê Bình Văn Học Phạm Đức Nhì.
Chiều nay
tôi đã đọc xong lần thứ hai chùm 3 bài phê bình của ông: Bánh Vẽ – Tạ Lỗi
Trường Sơn – Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc.
Thật là
quá hay, quá sâu sắc. Rất cảm ơn ông. Trong email trước, với tư cách một người
đọc, tôi có nêu một số ý kiến cá nhân về bài của ông Chu Văn Sơn bình bài
thơ Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc trên VanViet, nếu thấy có chút ít gì chia
sẻ được cùng bạn đọc, ông cứ tùy nghi sử dụng.
Trân
trọng kính chào ông.
Kính thư
Hà Định Văn.
8/
Thưa ông
Hà Định Văn,
Bài viết
tổng hợp của tôi chưa xong nhưng tôi đã góp nhặt thư từ trao đổi của ông và tôi
thành một "bài" với cái tựa Trao Đổi Với Ông Hà Định Văn. Tôi có bỏ
một vài đoạn không cần thiết.
Tôi gởi
đến ông đọc thử. Nếu ông cho phép tôi sẽ phổ biến bài viết coi như một cuộc đối
thoại văn học nho nhỏ.
Mong tin
ông,
Phạm Đức
Nhì
9/
Nhà Thơ ,
Nhà Phê Bình Phạm Đức Nhì kính mến.
Cảm ơn
ông đã gửi cho tôi đọc lại các ý kiến nhỏ mà chúng ta đã trao đổi và đã được
ông "góp nhặt" như ông nói là một cuộc "đối thoại văn học nho
nhỏ". Vâng! Xin ông cứ đưa lên trang Web để bạn đọc cùng tham khảo.
Kính thư
Hà Định Văn.
dinhvan213@gmail.com
Chú
Thích:
1/ Tiến
Sĩ Văn Chương, tác giả bài viết Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi
Hùng. Độc giả có thể đọc bài viết ấy qua link:
https://ngominhblog.wordpress.com/2015/02/26/nhin-tu-xa-to-quoc-tieng-tho-quan-quai-bi-hung/
Rất cảm ơn Nhà thơ, Nhà phê
bình Phạm Đức Nhì. Tôi vừa cùng hai người bạn đồng niên yêu văn học đã đọc bài
viết này (So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng). Chúng
tôi đều rất tâm đắc về sự phân tích, so sánh sâu sắc, khách quan , xác đáng của
ông. Ở trong nước, cho đến nay vẫn chưa thấy (hoặc có mà chưa xuất hiện) một
thầy giáo chuyên ngành ngữ văn nào ở bậc đại học và trên đại học có những bài
giảng như vậy, để giúp học trò hiểu đúng về một tác giả và tác phẩm nổi tiếng
của họ.
Xin trân
trọng cảm ơn ông.
Hà Định
Văn.
Ý
KIẾN BẠN ĐỌC VỀ BA BÀI THƠ PHẢN KHÁNG
Kính
gởi ông Phạm Đức Nhì,
Tôi
đã đọc lời bình của ông cho ba bài thơ “phản kháng”. Rất sâu sắc và thú vị. Tôi
được biết ông là người miền nam, và hình như vì thế, khi luận về “anh hùng, anh
hèn” ông có vẻ nhẹ tay với Đỗ Trung Quân và xử ép Chế Lan Viên. Bây giờ bình
tâm suy nghĩ lại, ông có thấy như thế không?
Không
phải riêng tôi mà nhiều người yêu thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về thơ mà tôi
biết, đều cho rằng NTXTQ hay hơn hẳn TLTS và Bánh Vẽ. Có lẽ ông chưa “thấy”
được cái hay của nó chăng?
Trân
trọng kính chào ông,
Hoàng
Ngọc Thưởng.
Huế/
Việt Nam
Trong
3 bài thơ tôi “tuyển chọn” đại diện cho dòng thơ phản kháng thì – tùy “gu” thơ
của mỗi người vị trí đầu bảng có thể khác nhau. Nếu ông chỉ nói “Theo tôi
(HNT), NTXTQ hay hơn hẳn TLTS và Bánh Vẽ” thì tôi sẽ không có ý kiến gì vì đó
là quyền của ông. Đàng này lý do ông đưa ra để hỗ trợ cho sự chọn lựa ấy lại là
“Không phải riêng tôi mà nhiều người yêu thơ và có hiểu biết khá sâu sắc về
thơ” đều nói như thế, thì với tôi, không đủ sức thuyết phục. Lý do ấy quá yếu.
Bởi có rất nhiều người yêu thích một bài thơ, cho nó là hay, là “hết sẩy” đôi
khi vì những lý do rất “ngoài thơ”, không liên quan gì đến giá trị nghệ thuật
của bài thơ cả. Tôi không biết ông (và những người ông biết) dựa vào tiêu chí
nào để đánh giá bài thơ này hay hơn hẳn bài thơ kia nên đành chịu. Tuy nhiên,
để tỏ lòng tôn trọng ý kiến của độc giả tôi xin phân tích thêm một chút về
quyết định bình chọn của mình.
Trong
So Sánh Ba Bài Thơ Phản Kháng tôi đã viết:
Nhưng
khi muốn “chọn bài thơ hay nhất” tức là muốn nói đến giá trị nghệ thuật – cái
hay, cái dở - của những bài thơ được so sánh nhà phê bình phải chặt hết dây mơ
rễ má, cắt đứt mọi mối quan hệ để bài thơ không còn bất cứ một chỗ nào dựa dẫm
mà phải tự đứng trên đôi chân của nó.
Lúc
ấy đởm lược của tác giả (anh hùng hay “anh hèn”), yêu nước thương nòi hay chỉ
là loại sâu dân mọt nước, tiếng vang của bài thơ (ít người chú ý đến hay làm
xôn xao dư luận của cả nước), chỗ đứng trong văn học sử hay lịch sử (bài thơ có
đại diện cho một giai đoạn lịch sử, hay không) … đều phải bỏ qua một bên mà chỉ
chú tâm đến mấy tiêu chí quan trọng để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ
là: Tứ Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ.
Kính
gửi ông Phạm Đức Nhì,
Ông
nghĩ sao về bài Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc - Tiếng Thơ Quằn Quại Bi Hùng của nhà phê
bình văn học Chu Văn Sơn?
Một
người yêu văn học
Trần
Ngọc Ca
Nam
Định
Chào
ông Trần Ngọc Ca,
NTXTQ
của Nguyễn Duy là một bài thơ … nặng ký. Trước khi viết lời bình tôi đã bỏ ra
hơn một thời gian khá lâu để tra cứu, tìm đọc tất cả những “lời qua tiếng lại”
về bài thơ, và dĩ nhiên, cũng đọc được bài bình của Tiến Sĩ Chu Văn Sơn.
Một
số khá đông người bình thơ (thơ tiếng Việt) thường chú trọng phần ngôn ngữ, ý
tứ: lời đẹp, chữ đắt, ý tứ hay. Họ phân tích tứ thơ của tác giả rồi dùng sự
hiểu biết và cảm nhận của riêng mình tán rộng ra. Bài viết của Tiến Sĩ Chu Văn
Sơn theo tôi, thuộc loại này. Đọc một số bài bình thơ như thế đôi lúc cũng gặp
những điều thú vị nhưng mục đích của bài bình là thẩm định giá trị nghệ thuật
của bài thơ – bài thơ hay hoặc dở, hay dở ở chỗ nào - thường không được chú
trọng đúng mức.
Trong
những bài bình thơ, tôi dùng phương cách “tiếp cận toàn diện tác phẩm”. Mặc dù
nhiều khi không nói rõ ra, tôi dựa vào 3 tiêu chí chính để định giá trị nghệ
thuật một bài thơ: Tứ (Ý) Thơ, Kỹ Thuật Thơ và Hồn Thơ. Trong 3 tiêu chí chính
này, có khi còn có nhiều tiêu chí “nhỏ” khác.
Thưa
ông Trần Ngọc Ca,
Tôi
chỉ nói qua về phương cách phê bình. Nhận định hay dở xin nhường cho độc giả.
PHẠM
ĐỨC NHÌ
Blog
phamnhibinhtho.blogspot.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét